Bài 6: Nghĩa Quận công Tống Tất Thắng- người khai khoa đất học Thanh Chương.
Theo các tài liệu của Viện Hán Nôm, Ban Quản lý Di tích Nghê An và sách “Khoa bảng Nghệ An”, dưới thời khoa cử phong kiến cả tỉnh Nghệ An có 150 vị đỗ đại khoa (tiến sỹ) thì huyện Thanh Chương chiếm số lượng lớn (25 %). Nếu như người Nghệ An đầu tiên là Bạch Liêu (1236- 1315) ở Yên Thành đậu Trạng nguyên năm Thiệu Long thứ 9 (1266), thì Tống Tất Thắng đậu Tiến sỹ năm Ất Sửu (1505) - là người “khai khoa” cho đất học Thanh Chương- người đã làm rạng danh cho quê hương, cho vùng đất xứ Nghệ bởi tài năng và ân đức của mình.
Phần mộ Nghĩa Quận công tại xã Nam Trung huyện Nam Đàn
Theo các tư liệu lịch sử đang được con cháu dòng họ Tống ở
Nam Đàn lưu giữ, Nghĩa Quận công Tống Tất Thắng (1487-?) quê ở làng Nam Hoa
Thượng, huyện Thanh Chương (nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn). Mặc dù gia cảnh
nghèo, mồ côi cha năm 13 tuổi nhưng Tống Tất Thắng luôn giữ vững ý chí, quyết
tâm dùi mài kinh sử, luyện tập võ nghệ để trở thành người văn võ song toàn. Nhờ
đó, năm 15 tuổi ông đã thi đỗ Hương Cống. Và 3 năm sau, Tống Tất Thắng có tên
trong danh sách bảng vàng của khoa thi năm Ất Sửu (1505) dưới thời vua Lê Uy
Mục, được phong chức Thống Chinh nguyên súy bình Man trước khi lên đường vinh
quy bái tổ. Sau đó, ông tiếp tục được giữ những chức vụ quan trọng trong triều
đình như Lại bộ Thượng Thư, Đông Các Đại học sỹ và được phong tước Nghĩa Quận
công.
Sinh thời, Tống Tất
Thắng tính tình cương trực, thông minh và văn võ song toàn nên luôn được triều
đình tin dùng. Mỗi khi có giặc Ai Lao, Chiêm Thành và Bồn Man quấy nhiễu biên
thùy, nhà vua thường cử Tống Tất Thắng thống lĩnh ba quân vào trấn giữ vùng
biên cương xứ Nghệ - cũng là mảnh đất quê hương. Một lần, giặc Bồn Man sang
quấy rối vùng đất miền Tây xứ Nghệ, Tống Tất Thắng tiếp tục được nhà vua tin
tưởng giao phó việc cầm quân đánh giặc, nhanh chóng giành được thắng lợi nhưng
ông đã bị lâm bệnh và mất trên đường trở về. Sau khi ông mất, thi hài ông được
an táng tại quê hương, nay thuộc làng Trung Cần, xã Nam Trung (Nam Đàn). Cảm
phục trước tài năng, đức độ và công trạng của một người con quê hương, bà con
làng Nam Hoa Thượng (nay là xã Nam Trung) quanh năm chăm sóc phần mộ và tôn ông
làm Thành hoàng. Từ đó, mỗi lần có giặc đến quấy nhiễu vùng biên cương xứ Nghệ,
các vị tướng lĩnh được triều đình cử cầm quân đi dẹp giặc đều tìm đến làng Nam
Hoa Thượng thắp hương trước mộ và ban thờ Tống Tất Thắng ở đình làng, cầu xin
anh linh ông phù hộ giành chiến thắng.
Đến
năm 1553 Vua Lê Trang Tông đã xuống chỉ cho các làng ở vùng đất "Chín
Nam" ngày nay lập đền thờ và hàng năm tổ chức tế lễ vào dịp 15- 2 Âm lịch
theo nghi thức quốc tế (lễ tế mang tầm quy mô quốc gia). Theo ông Tống Xuân
Hùng (xóm 5, Khánh Sơn)- hậu duệ đời thứ 19 của Tống Tất Thắng, đền thờ Nghĩa
Quận công gọi là đền Thống Chinh được dựng dưới chân núi Quải Bái và được con
cháu cùng nhân dân trong vùng hương khói quanh năm. Vào dịp trung tuần tháng 2
Âm lịch hàng năm, người dân khắp vùng đất "Chín Nam" và các vùng lân
cận cùng nhau tề tựu về núi Quải Bái tham gia lễ hội. Lễ hội diễn ra trong 3
ngày, lễ rước diễn ra cả dưới sông (bằng thuyền) và trên bộ tạo nên không khí
vừa linh thiêng, vừa náo nức.
Về
ngôi đền Thống Chinh và sự nghiệp của Nghĩa Quận công Tống Tất Thắng, hiện đang
chứa đựng một số điểm đặc biệt. Đó là còn lưu giữ được tổng số hơn 60 sắc phong
của triều Hậu Lê và triều Nguyễn phong cho ông Tổ của mình. Thứ hai, là trong
cảnh mưa bom bão đạn và thời gian đền Thống Chinh bị xuống cấp nhưng các loại
báu vật bao gồm long ngai, triều phục, mũ, hia, lọng, cờ, lao đao, bảo kiếm,
chuông, khánh... vẫn còn nguyên vẹn. Nội dung của các sắc phong kể trên đều tập
trung ghi nhận và suy tôn công đức phò vua, giúp nước, an dân của Thống Chinh
Chiêu Nghĩa Đại vương Tống Tất Thắng.
Cổng Đền Thống Chinh -
nơi thờ Ngĩa Quận công Tống Tất Thắng
Đó
là những lời ca ngợi về đạo đức, tấm lòng khoan dung độ lượng, tính tình cương
trực, trí thông minh, lòng quả cảm, uy danh lừng lẫy, danh tiếng. Tại đền Thống
Chinh hiện còn lưu giữ được một tấm bia đá với tổng số gần 400 chữ Hán được
khắc và dựng vào năm 1853. Tác giả của bài văn bia là Thám hoa Nguyễn Văn Giao
và Giải nguyên Nguyễn Hữu Lập - các bậc đại khoa sinh ra và lớn lên trên vùng
đất "Chín Nam".
Văn bia ghi công đức của Ngĩa Quận công tại đền Thống Chinh
Năm
1995, đình Trung Cần và mộ Tống Tất Thắng ở xã Nam Trung được công nhận Di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Trần
Đình Hà (sưu tầm và biên soạn)