Nguyễn Cảnh Hoan (1521-1576) là tướng nhà Lê Trung Hưng, có tài liệu chép tên là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh bộ Thượng thư, hàm Thái phó về sau được tấn phong Quốc công. Tổ tiên là người phường Thiên Lý thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh cuối đơì nhà Hồ vì loạn lạc nên di chuyển vào làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương- Nghệ An. Họ Nguyễn Cảnh nhà ông còn có tên gọi là họ Nguyễn Cảnh Thiên Lý.
Ông là hậu duệ đời thứ 6 của các anh hùng thời Hậu Trần
như: Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị…Cha của ông là Phúc Khánh Quận
công Nguyễn Cảnh Huy người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh
Nghệ An. Mẹ là người họ Thái xã Hòa Sơn, Đô Lương.
Đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan ở xã Tràng Sơn, Đô Lương, Nghệ An.
Đến thời trưởng thành vùng Thanh - Nghệ quê ông nhiều trộm cướp và giặc giã. Cha con
Nguyễn Cảnh Hoan đã lập đồn trại, chiêu mộ quân sĩ và khởi binh tại thôn Chiêu
Quả, tiễu trừ các đám sơn tặc, thu phục và tiêu diệt dần các thế lực đối địch. Năm
1536, cha con ông mang quân sĩ đến Sầm Châu theo Lê Trang Tông và được trọng
dụng. Nguyễn Cảnh Huy được phong làm Bình Dương Hầu, Cảnh Hoan tước
Dương Đường Hầu dưới quyền điều khiển của Nguyễn Kim (cha Chúa Nguyễn
Hoàng- ông tổ nhà Nguyễn Đàng Trong).
Bàn Thờ Nguyễn Cảnh Hoa tại Đền thờ ở xã Tràng Sơn- Đô Lương.
Tháng 12, năm 1547, Đại tướng nhà Mạc đem quân đi đánh
nhà Lê. Quân hai bên đánh nhau to ở Lôi Dương thuộc Thiệu Hóa, Thanh Hóa, Đại
tướng Nguyễn Kính nhà Mạc thua trận trên đường rút lui trúng phục binh của Cảnh
Hoan, quân Mạc thua to. Trận này Cảnh Hoan được phong Đề đốc Tấn quận công.
Tháng 1 năm 1553, do có nhiều chiến tích trong các đợt chống
quân Mạc, Nguyễn Cảnh Hoan được phong làm Thái Bảo. Trịnh Kiểm thấy
ông là người mưu lược nên rất kính nể, coi như thần tử thân thuộc và gọi ông
là Trịnh Mô, cho quyền thu
thuế và trông coi hai huyện Nam Đường và Chân Phúc thuộc Nghệ An.
Năm 1555, Thọ quốc công và Vạn Đồn hầu nhà Mạc đem quân xâm
lấn huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Cảnh Hoan trận này bắt sống được tướng Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, các con là Tuấn Đức
hầu Trịnh Cối và Phúc Lương hầu Trịnh Tùng tranh quyền. Nhà Mạc
nhân việc này kéo quân vào xâm lấn, Nguyễn Cảnh Hoan cùng các tướng đem
quân từ An Định qua Vĩnh Phúc đánh lấy Tống Sơn. Tháng 12, quân Mạc rút về bắc.
Cảnh Hoan được gia phong làm Thiếu phó.
Tháng 7 năm 1571, Khiêm vương Mạc Kinh Điển và các
tướng vào đánh cướp Nghệ An, dân phía Nam sông Lam phần lớn đều quy phục quân
Mạc. Các tướng nhà Lê ở đây là Nguyễn Bá Quýnh cự không được đành bỏ chạy,
Hoàng quận công bị quân Mạc bắt sống. Tháng 9 năm 1571, Nguyễn Cảnh Hoan
đem quân vào cứu Nghệ An cùng Mạc Kinh Điển và Nguyễn
Quyện giao chiến, đại quân Mạc thế chừng ở lâu đánh không được phải rút về
bắc.
Năm 1573, Lê Duy Đàm lên ngôi. Trịnh Tùng được
phong làm Đô tướng, Thái úy Trưởng quốc công. Nguyễn Cảnh Hoan được phong
làm Hiệp mưu công thần, đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Binh bộ
thượng thư, Thái phó, kiêm Hành tướng sự.
Năm 1574, tướng Mạc là Nguyễn Quyện đem đại binh
vào quấy phá Nghệ An. Tướng nhà Lê là Hoành quận công sợ hãi bỏ chạy, đến Bố
Chính bị bắt sống. Quân Lê phái Nguyễn Cảnh Hoan và Phan Công
Tích vào cứu. Hai bên đánh nhau mấy tháng liền, Nguyễn Quyện rút quân về bắc.
Năm 1575, Nguyễn Quyện nhà Mạc đem đại binh vào đánh cướp
Hoan Châu. Cảnh Hoan đem quân vào cứu lập doanh trại tại đạo Thanh Thủy, chiêu
mộ binh sĩ, đắp lũy kéo dài từ vùng Hồ Nón, Nam Đàn cho tới Lựu
Sơn, Đô Lương để chống đại quân Mạc, hai bên đánh nhau nhiều trận tại vùng Thanh Chi, Võ Liệt, Phuống
thuộc Thanh Chương bất phân thắng bại.
Lo ngại Cảnh Hoan có quân tiếp ứng, Nguyễn Quyện rút
quân xuôi sông Lam ra biển, Cảnh Hoan biết được đặt phục binh tại Rú Nguộc giết
chết Kỳ quận công nhà Mạc tại trận. Nguyễn Quyện cùng đại quân tháo chạy ra
biển về Bắc. Quân Lê thắng to.
Năm 1576, nhà Mạc huy động các tướng giỏi và đại binh đánh
Thanh - Nghệ. Nguyễn Quyện tiến theo đường biển đánh phá Nghệ An. Trịnh Tùng
cho người đưa chỉ triệu Cảnh Hoan về bàn bạc kế hoạch chống giữ. Thuộc tướng
của Cảnh Hoan là Lâm quận công làm phản, đầu hàng Nguyễn Quyện và tiết lộ tin
tức. Nguyễn Quyện đem quân trở ra Ngọc Sơn, Thanh Hóa đóng đồn cho quân mai
phục hai bên đón đường. Trên đường ra Yên Trường, Cảnh Hoan và quân túc vệ rơi
vào mai phục của Nguyễn Quyện tại Bông Đồn, Độc Hiệu. Đánh nhau hơn một ngày,
Cảnh Hoan đem quân theo ít, chống không được đại binh nhà Mạc nên yếu thế dần. Nguyễn
Quyện bắt được Cảnh Hoan đem về Thăng Long. Trịnh Tùng phái người ra bắc tìm cách đem vàng chuộc ông nhưng không được. Nhà
Mạc biết Hoan là tướng giỏi bèn cho các đại thần, đặc biệt là Nguyễn Quyện tới
tìm cách lôi kéo nhưng ông cự tuyệt. Bị giam tại Thăng Long, nhà Mạc thấy ông
là tướng giỏi, rộng rãi mà cương nghị, muốn tìm cách lôi kéo mua chuộc, cử các
đại thần văn võ tới thăm viếng dụ dỗ nhưng bị ông cự tuyệt. Nguyễn Quyện cũng
đến gặp ông. Sau cuộc viếng thăm này, biết không thể thu phục được Cảnh Hoan
nên nhà Mạc đem ông giết đi. Là địch thủ nhiều năm trên chiến trường Hoan Châu,
tiếc ông là người cương liệt trung nghĩa, Nguyễn Quyện đã cho người khâm liệm
và xin Vua Mạc cho người đưa thi hài về quê và có nói về ông rằng: Trung
nghĩa, cương liệt đời hiếm hoi, sau này ắt sẽ thành thần lớn
Sắc chỉ triều đình nhà Lê lập đền thờ chính của ông ở thôn
Chân Ngọc, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương.
Ông có 20 người con (trong đó có 10 trai và 08 gái, 2 con
trai nuôi). Anh em và con cháu ông tiếp tục sự nghiệp trung hưng nhà Lê đều làm
tướng, nhiều đời quý thịnh, 18 người được phong quận công, 72 người tước hầu có
tiếng là Trung Cần Nhân Nghĩa như Thái bảo Tả Tư không Thư quận
công Nguyễn Cảnh Kiên, Thiếu phó Đô úy Tả Tư mã Thắng quận công Nguyễn
Cảnh Hà, Tả đô đốc Phó tướng Liêu quận công Nguyễn Cảnh Quế, …
Đền Hữu ở xã Thanh yên- di tích lịch sử Quốc gia, một trong những nơi thờ Nguyễn Cảnh Hoan.
Năm 1602, đền thờ ông được xây dựng quy mô ở xã Tràng Sơn,
Đô Lương, Nghệ An. Năm 1787 được trùng tu, Năm 1895 xây thêm trung điện và nhà
bia. Định kì mười năm tổ chức lễ chay một lần, là lễ hội lớn của vùng Nghệ An.
Năm 1991, đền thờ được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Vùng Nghệ An có nhiều đền thờ ông, ngoài nơi thờ tự chính ở
Tràng Sơn còn có đền Phú Thọ ở xã Lưu Sơn huyện Đô Lương, đền Hữu ở xã Thanh Yên, phủ thờ ở xã Thanh Văn
huyện Thanh Chương, đền thờ tại Hồ Nón, huyện Nam
Đàn...
Phần mộ của ông hiện nay thuộc Rú Cấm xã Tràng Sơn huyện Đô
Lương.Hiện nay tại thành phố Vinh, Thị trấn Đô Lương, Thị trấn Thanh Chương,
Nghệ An đều có đường mang tên ông.
Trần Đình Hà