ĐĂNG NHẬP  
image banner
       
Di tích lịch sử Quốc gia nền tế cờ và nhà thờ Trần Tấn-
Lượt xem: 376

Năm 1874, ngay sau khi Triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, tầng lớp văn thân, sĩ phu yêu nước đã phản ứng mạnh mẽ, đặc biệt là Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa Trần Tấn - Đặng Như Mai ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã ghi dấu ấn điển hình về tinh thần dân tộc cao cả vì chủ quyền quốc gia và để lại những bài học quý giá cho cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc sau này.

Hiệp ước Giáp Tuất (1874) đã thể hiện sự bất bình đẳng giữa Việt Nam và Pháp trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, tạo cơ hội cho thực dân Pháp can thiệp sâu hơn vào hoạt động của triều đình, tiến một bước dài trong quá trình thôn tính Việt Nam.

Anh-tin-bai

                             Các đại biểu và con cháu dâng hương tại nền tế cờ

Trước thái độ đầu hàng của triều đình, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, chống triều đình của các tầng lớp nhân dân tiếp tục dâng cao tại nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ sau Hiệp ước Giáp Tuất được ký kết. Văn thân, sĩ phu phẫn nộ đã nổi dậy nhiều nơi như Hộ đốc Lê Hữu Thường, Tuần phủ Đặng Xuân Bảng ở Nam Định, sĩ phu Nguyễn Mậu Kiến ở Thái Bình, quy mô lớn nhất của phong trào Văn thân lúc ấy là ở Nghệ - Tĩnh do thầy trò Tú Tấn lãnh đạo.

Theo “Từ điển nhân vật xứ Nghệ” của PGS Ninh Viết Giao thì Trần Tấn là sĩ phu yêu nước, quê làng Chi Nê, tổng Võ Liệt, nay là xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông đỗ Tú tài, xuất thân làm Bang biện huyện Thanh Chương. Với tấm lòng nhiệt thành yêu nước, khi đang làm Bang biện, ông đã có những hành động rất kiên quyết là trấn áp một số cha cố đang hoạt động gián điệp ở vùng Mộ Vinh (Thanh Chương), ông bị Triều đình Huế buộc tội và cách chức. Không vì thế mà ông nhụt chí, ông ra Bắc vào Nam lấy cớ dạy học để kết bạn tâm giao.

Anh-tin-bai

cùng bàn bạc việc chống Pháp. Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh lân cận, Trần Tấn cùng học trò thân tín là Đặng Như Mai tập hợp các sĩ phu yêu nước như Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển ở Hà Tĩnh, Trương Quang Thủ ở Quảng Bình, họp văn thân bàn cách đánh giặc, chiêu mộ nghĩa quân phát động khởi nghĩa. Nhằm nêu cao mục đích chính nghĩa và tập hợp lực lượng đông đảo các tầng lớp nhân dân, Trần Tấn đã viết bài “Hịch văn thân” đề ngày mồng 2 tháng 2 năm Tự Đức thứ 27 (tức ngày 29/3/1874) với khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” để hô hào Nhân dân vùng lên cứu nước. “Bình Tây sát tả” chính là cương lĩnh của cuộc khởi nghĩa.

Ngày 17/3/1874, Trần Tấn cùng con trai là Trần Hướng và học trò Đặng Như Mai làm lễ tế cờ tại rú Đài (Thanh Chi) rồi kéo xuống Thanh Thủy (Nam Đàn) lập đại đồn. Trần Tấn đã đọc “Hịch văn thân”, kêu gọi quân sĩ: “Hãy vì lăng miếu tổ tiên ngàn đời của cha ông mà cùng nhau  dốc lòng, dốc sức chiến đấu” và ông được tôn là “An Nam đại lão tướng quân”, tổng chỉ huy toàn bộ nghĩa sĩ ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Các tướng sĩ khác được giao các nhiệm vụ cụ thể khác: Đặng Như Mai coi việc thuế khóa và vận động Nhân dân quyên góp vật chất để nuôi quân; Đặng Quang Vinh (em trai Đặng Như Mai) theo dõi tình hình, kịp thời đối phó với bọn phản động đội lốt tôn giáo làm gián điệp cho Pháp trong vùng; Trần Hướng, Năm Thiện, Đội Dục được giao nhiệm vụ chỉ huy các toán quân chiến đấu...

Hưởng ứng lời kêu gọi “Bình Tây sát tả”, Nhân dân Nghệ An nhiệt liệt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân đã chiếm được tỉnh lị Hà Tĩnh và làm chủ hầu hết các vùng Nghệ Tĩnh, trừ thành Nghệ An. Từ chỗ chống Pháp, cuộc khởi nghĩa trên thực tế đã chuyển thành một phong trào vừa chống Pháp, vừa chống triều đình đầu hàng, đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bộ phận chủ trương kháng chiến và bộ phận đầu hàng trong giai cấp phong kiến mà tiêu biểu là Triều đình Huế.

Hoảng hốt trước sức mạnh của nghĩa quân, vua Tự Đức ra lệnh giáng chức các quan lại bất tài ở Nghệ An: Tôn Thất Triệt, Phạm Chi Hương, Nguyễn Đôn, cử Nguyễn Chính làm Tổng đốc, chỉ thị phải hợp tác với cha cố người Pháp để đối phó. Tự Đức phải cử Đô Thống Hồ Oai dẫn 600 quân từ Thanh Hóa vào hợp tác, sau đó là Khâm sai Nguyễn Văn Tường, Tổng thống quân vụ đại thần Lê Bá Thận, Nguyễn Đình Khoa đem 500 quân cấp tốc ra Hà Tĩnh, cử Phạm Tiến Lâm đưa hơn 1.000 quân đóng giữ tuyến sông Gianh để đàn áp. Chưa đủ, ở phía Bắc, Tự Đức còn điều cả quân của Tôn Thất Thuyết đang đóng ở Sơn Tây về Thanh Hóa lấy thêm quân rồi tiến vào Nghệ An để giải vây cho thành Diễn Châu và thành Vinh. Thực dân Pháp và tay sai đã treo thưởng 400 lạng bạc và chức quan Chánh phẩm cho ai giết hoặc bắt được “giặc Mai, giặc Tấn”.

Căn cứ Võ Liệt của nghĩa quân ở Thanh Chương nhanh chóng bị phá vỡ. Trần Tấn và Đặng Như Mai phải rút về vùng núi phía Tây của Nghệ Tĩnh cùng với Trương Quang Thủ, Nguyễn Huy Điển. Khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” có đã bộc lộ rõ sự hạn chế là tạo ra sự chia rẽ trong nội bộ khiến nghĩa quân ngày một yếu đi.

Thất bại của khởi nghĩa Giáp Tuất (1874) của Trần Tấn - Đặng Như Mai cũng như phong trào yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX đã bộc lộ sự lỗi thời, bất lực của ý thức hệ phong kiến cũng như tình trạng khủng hoảng lãnh đạo, thiếu đường lối đúng đắn dẫn dắt để giải phóng dân tộc. Đây chính là bài học sâu sắc về vai trò lãnh đạo và huy động tổng hợp sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp đấu tranh giữ nước.

Anh-tin-bai

                   Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh huyện, xã tại buổi lễ kỷ niệm 150 năm khởi nghĩa Giáp Tuất

 Đánh giá, ghi nhận ý nghĩa lịch sử lớn lao của Khởi nghĩa, khu di tích nền Tế Cờ, mộ và nhà thờ Trần Tấn ở xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương đã được Nhà nước xếp hạng là “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia” năm 2002. Hàng năm, tại khu di tích này diễn ra nhiều kỳ lễ, nhưng lớn nhất là lễ giỗ của Trần Tấn vào ngày 22/8 âm lịch và lễ kỷ niệm ngày Trần Tấn làm Lễ tế Cờ 17/3 âm lịch. Sở văn hóa thể thao, UBBND huyện Thanh Chương, xã Thanh Chi vả dòng họ Trần Đức vừa long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 150 năm ngày khởi nghĩa Giáp Tuất trong niềm tự hào. Chí khí anh hùng, tinh thần chiến đấu ngoan cường của Trần Tấn mãi được Nhân dân Nghệ - Tĩnh và Nhân dân cả nước ngưỡng mộ và tôn kính. Ông xứng đáng là một danh nhân lịch sử của dân tộc và quê hương xứ Nghệ.

                                                                        Trần Đình Hà

 

Tin tức
  • Đất và Người Thanh Chương
1